
Vietstock – Agribank đang làm gì trước thềm cổ phần hoá?
Lên kế hoạch bán ALC I có kế thừa công nợ, dọn dẹp sổ sách, chuẩn hoá những chỉ tiêu tài chính, Agribank đang rốt ráo chuẩn bị cho kế hoạch IPO vào năm 2022…
* 14 năm chưa thể cổ phần hóa: Agribank đang buôn bán như thế nào?
Lộ trình cổ phần hoá Agribank đang tới rất sắp |
Agribank đang sở hữu một nhóm công ty con, trong đấy có Công ty Cho thuê tài chính I (ALC I). Sau hơn 10 năm, đề cập từ lúc IPO dang dở mang con số luỹ kế cả chục nghìn tỷ đồng thì nay, lỗ luỹ kế của ALC I đã và đang giảm một bí quyết thần kỳ xuống 794 tỷ đồng.
THƯƠNG VỤ BÁN CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH I – ALC I
Theo phân tích của một chuyên gia M&A, số lỗ luỹ kế của ALC I giảm, hài hòa mang thị trường tàu biển phục hồi mạnh mẽ là những khía cạnh để Agribank chiếm thế thượng phong trong đàm phán bán công ty này.
Nhớ lại bối cảnh năm 2006 về trước, sản lượng hàng hoá vận chuyển giữa Trung Quốc và châu Âu, Mỹ tăng cao, kéo theo đơn hàng đặt đóng mới tàu tăng khủng khiếp. Thậm chí, năm 2007, hầu hết tàu shipyards (xưởng đóng tàu, ụ tàu) ở Nhật, Hàn, Trung Quốc hay Việt Nam đều kín đơn tới 2012 mang mức giá rất hấp dẫn.
Khoảng tháng 8/2008, giá tàu rớt nhanh chưa từng thấy, mức giảm tới 40% – 50%, dẫn tới ngành đóng tàu trong nước suy thoái. Những đổ vỡ Vinashin, Vinalines cùng những xưởng đóng tàu rải rác khắp những tỉnh duyên hải của Việt Nam phần lớn do tác động bởi cuộc khủng hoảng này.
Hoạ vô đơn chí, những tổ chức rót vốn vào lĩnh vực đóng tàu gồm có những ngân hàng, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính bị vạ lây, trong đấy có ALC I. Đúng thời điểm đấy, ALC I tiến hành IPO, hứa hẹn cuộc đấu tầm giá công thì lâm vào thua lỗ, kế hoạch cổ phần hoá bị giới hạn lại cho tới tận bây giờ.
Trong hơn 10 năm đấy, ALC I tìm giải pháp phục hồi hoạt động và tập trung thu hồi công nợ. Tới thời điểm này, từ chỗ những khoản nợ cần thu cả chục nghìn tỷ đồng thì tính tới đầu tháng 6/2021, số lỗ luỹ kế chỉ còn 794 tỷ đồng.
Theo đại diện Agribank, hiện có một số nhà đầu tư muốn tậu ALC I có kế thừa công nợ. Trường hợp giải quyết dứt điểm thương vụ ALC I, ko kể việc thu được món hời, bức tranh tài chính của Agribank sẽ thêm phần cuốn hút, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình IPO vào năm 2022.
SAU 5 NĂM, DỌN DẸP NỢ XẤU ĐẾN ĐÂU?
Hơn 10 năm trước, nhắc tới Agribank, ko ít người chung cảm nhận: ko biết ngân hàng này hoạt động ra sao. Việc tìm hiểu con số lợi nhuận, nợ xấu, trích lập dự phòng… trên con đường minh bạch trở nên thật khó khăn.
Có Quyết định 254/QĐ-TTg ngày 1/3/2012 giai đoạn 2011 – 2015 và tiếp sau là Quyết định 1058/QĐ-TTg ngày 19/7/2017 giai đoạn 2016 – 2020 của Thủ tướng Chính phủ, Agribank đã tự nhận diện mình là ai và đang ở đâu lúc mà tại thời điểm năm 2012, tổng nợ xấu của Agribank lên tới 30 nghìn tỷ đồng, tương ứng 5,8% tổng dư nợ.
Lấy mốc 31/12/2012, nợ xấu ngân hàng đang ở mức 5,8%/tổng dư nợ thì chỉ sau 3 năm, vào 2015 đã kéo tụt xuống 2,01%. Năm 2016 giảm còn 1,89% và 2017: 1,54%, giảm 0,47% so mang 2015 và giảm 0,35% so mang 2016; 2018: 1,6%; 2019: 1,12% và 2020 là 1,7%. |
Đây là cội nguồn để ngân hàng từng bước thực hiện đề án tái cơ cấu và xử lý nợ xấu, theo bí quyết mà giới quan sát nhìn nhận khó có thể hà khắc hơn.
Những khoản chi, từ vận hành hệ thống tới lương thưởng, thu nhập đều bị cắt giảm, áp lực công việc gia tăng, những mục tiêu đề ra tại Đề án tái cơ cấu ngân hàng đòi hỏi thực hiện chính sách “thắt lưng buộc bụng”, dẫn tới cả nghìn lao động rời bỏ sang nơi khác. Song song là chính sách đòi nợ “có một ko ai”: bất đề cập ai quản lý khoản tín dụng chất lượng thấp, muốn thuyên chuyển nội bộ hoặc rời sang nơi khác cần làm rõ trách nhiệm xong rồi mới nói chuyện đi hay ở.
Nhờ vậy, nợ xấu ở Agribank đã hạ thấp sắp như tụt thẳng đứng. Lấy mốc 31/12/2012, nợ xấu ngân hàng đang ở mức 5,8%/tổng dư nợ thì chỉ sau 3 năm, vào 2015 đã kéo tụt xuống 2,01%. Năm 2016 giảm còn 1,89% và 2017: 1,54%, giảm 0,47% so mang 2015 và giảm 0,35% so mang 2016; 2018: 1,6%; 2019: 1,12% và 2020 là 1,7% (Nguồn: Báo cáo tài chính Agribank qua những năm).
Mặc dù giai đoạn 2015 – 2020 nợ xấu có tăng giảm do nhiều nguyên nhân khách quan như thiên tai, lũ lụt, dịch bệnh cây trồng vật nuôi hay sắp đây nhất là Covid-19; tuy nhiên, nợ xấu ngân hàng vẫn trong khoảng 2%/tổng dư nợ, thấp xa so mang trần nợ xấu 3% do Ngân hàng Nhà nước bắt buộc.
Chỉ tiêu | 2016 | 2017 | 2018 | 2019 | 2020 | |
Tổng tài sản (triệu đồng) | 1.001.205 | 1.151.672 | 1.281.597 | 1.451258 | 1.566.967 | |
Lợi nhuận trước thuế | 4.212 | 4.729 | 7.552 | 13.621 | 12.966 | |
Lợi nhuận sau thuế | 3.388 | 3.791 | 6.047 | 10.902 | 10.383 | |
Vốn điều lệ | 29.126 | 30.355 | 30.473 | 30.591 | 30.710 | |
Vốn chủ sở hữu | 49.231 | 53.762 | 56.707 | 67.473 | 71.417 | |
ROA % | 0,36% | 0,35% | 0,50% | 0,80% | 0,69% | |
ROE % | 7,05% | 7,36% | 10,95% | 17,56% | 14,95% | |
Thuế, phí nộp NSNN | 1.359 | 1.724 | 1.907 | 4.511 | 3.584 | |
Trong đấy, thuế TNDN | 818 | 1.042 | 1.020 | 3.198 | 2.388 |
Bảng 1: Những chỉ tiêu tài chính giai đoạn 2016 – 2020. Nguồn: Báo cáo tài chính riêng lẻ những năm 2016 – 2020 đã kiểm toán.
“SOI” LÃI DỰ THU
Theo nguyên tắc hạch toán lãi dự thu được quy định tại Thông tư 16/2018/TT-BTC ngày 7/2018 của Bộ Tài chính, chỉ những khoản nợ đủ tiêu chuẩn (nhóm 1), mới được hạch toán lãi dự thu.
Trong bảng cân đối kế toán, lãi cần thu bao gồm từ nhiều nguồn; trong đấy, có cả chứng khoán đầu tư sẵn sàng để bán (Trái phiếu Chính phủ) và những khoản tiền gửi của ngân hàng tại tổ chức tín dụng khác.
Năm 2020, ở Agribank, lãi cần thu từ cho vay là 8.634 tỷ đồng, chiếm 8,35%/tổng thu lãi từ hoạt động cho vay của ngân hàng; con số này của 2019 là 8,81%, đã giảm 0,46%.
Nói bí quyết khác, đây là lãi cần thu/thu nhập lãi và con số này ở Agribank so mang mặt bằng thị trường thì hết sức bình tường. Ví dụ, Vietcombank (HM:VCB) là ngân hàng có lợi nhuận đứng đầu hệ thống những tổ chức tín dụng Việt Nam thì tỷ lệ này cũng là 5,2% trong năm 2019 và 4,25% vào năm 2020.
Còn trường hợp tính tỷ lệ lãi cần thu từ cho vay mang khách hàng, chỉ có 0,71% trong 2020 và năm 2019 là 0,76% tổng thu nhập từ lãi.
Lãi cần thu từ cho vay là những khoản vay chưa tới kỳ thu lãi tại ngày kết thúc niên độ kế toán 31/12 hàng năm.
Năm 2020, ở Agribank, lãi cần thu từ cho vay là 8.634 tỷ đồng, chiếm 8,35%/tổng thu lãi từ hoạt động cho vay của ngân hàng; con số này của 2019 là 8,81%, đã giảm 0,46%. Đây là lãi cần thu/thu nhập lãi và con số này ở Agribank so mang mặt bằng thị trường thì hết sức bình thường. |
Việc ngân hàng hạch toán lãi dự thu, lãi cần thu được hiểu là lãi trong kỳ được phân bổ. Ấy là lãi của những khoản nợ nhóm 1, đủ điều kiện tính lãi, ko bao gồm nợ cơ cấu hay nợ nhóm 2 trở lên.
Báo cáo tài chính hàng năm của Agribank đều được kiểm toán bởi công ty kiểm toán quốc tế hàng đầu trong nhóm “big 4”, liên tục những năm sắp đây được Kiểm toán Nhà nước kiểm toán số liệu hoạt động.
Đầu 2020, Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo Agribank và những ngân hàng giảm lợi nhuận để hỗ trợ khách hàng; đồng thời, tăng cường rà soát trích lập dự phòng rủi ro để tăng “bộ đệm” an toàn trước đại dịch Covid-19.
QUẢN LÝ CHI PHÍ NHƯ THẾ NÀO?
Năm 2020, trường hợp xét về chi phí quản lý bình quân trên số lượng lao động và trên số lượng chi nhánh/phòng giao dịch thì Agribank ở mức thấp nhất so mang những ngân hàng lớn trên thị trường (Bảng 2).
Một đặc thù ở Agribank là số lượng khách hàng vay hộ, cá nhân mang những khoản vay nhỏ lẻ rất lớn, lớn nhất so mang bất cứ ngân hàng nào.
Hiện tại, ngân hàng đang quản lý 3,7 triệu khoản vay. Bình quân mỗi cán bộ tín dụng phụ trách 1.000 món/khoản vay trên địa bàn 3 – 4 xã.
Do vậy, Agribank buộc cần xây dựng mô hình tổ vay vốn mang con số sắp 70 nghìn tổ. Mỗi lúc ngân hàng có sản phẩm, chủ trương từ Ngân hàng Nhà nước hoặc chính sách mới từ Chính phủ như cho vay đầu tư tàu những đánh bắt xa bờ, cho vay tái canh cà phê, cho vay khuyến khích ứng dụng khoa học cao trong nông nghiệp… đều cần tổ chức những hội nghị tập huấn ở những tổ vay vốn này.
Chỉ tiêu | Agribank | BIDV (HM:BID) | VietinBank | Vietcombank |
Chi phí quản lý (triệu đồng) | 4.515.821 | 3.219.520 | 3.026.016 | 3.511.915 |
Số lượng lao động | 37.509 | 24.076 | 22.564 | 19.518 |
Số lượng chi nhánh/PGD | 2.226 | 1.096 | 1.158 | 589 |
Chi phí quản lý/lao động | 120 | 134 | 134 | 180 |
Chi phí quản lý/số lượng chi nhánh/PGD | 2.029 | 2.938 | 2.613 | 5.963 |
Bảng 2: Tương quan chi phí quản lý của Agribank so mang những ngân hàng Nguồn: VnEconomy tổng hợp những báo cáo tài chính riêng lẻ đã kiểm toán.
Bởi vậy, trường hợp xét quy mô số tuyệt đối, chi phí cho những hội nghị phổ biến chính sách hướng dẫn thủ tục, hồ sơ khách hàng, khánh tiết… tại Agribank thường lớn hơn so mang một số ngân hàng có tệp khách hàng ở những trung tâm kinh tế, vốn có số lượng nhỏ hơn nhiều lần.
Agribank đang quản lý 3,7 triệu khoản vay. Bình quân mỗi cán bộ tín dụng phụ trách 1.000 món/khoản vay trên địa bàn 3 – 4 xã. Do vậy, Agribank buộc cần xây dựng mô hình tổ vay vốn mang con số sắp 70 nghìn tổ và thường xuyên tổ chức hội nghị tập huấn nghiệp vụ, hội nghị khách hàng… |
Một điểm đáng lưu ý, mặc dù Agribank mang danh là ngân hàng thương mại nhưng cần đảm nhiệm “hai vai”: vừa thực hiện vai trò của một tổ chức tín dụng mang tính chính sách, vừa buôn bán trong môi trường thương mại khó khăn bình đẳng.
Năm 2020, ngân hàng giảm thu nhập 5.100 tỷ đồng do thực hiện miễn, giảm lãi suất. Kéo theo cả năm 2020, tổng lợi nhuận trước thuế đạt 13.203 tỷ đồng, giảm 731 tỷ đồng, tương ứng giảm 5,25% so mang 2019.
Nguyễn Hoài